Sunday, December 31, 2000

Hội chứng ngưng thở khi ngủ

Đây là tình trạng nội khoa thường gặp, nhưng không được nhận biết. Do đó không được chẩn đoán ở nhiều bệnh nhân người lớn.

Hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ thường gặp tại những người béo phì, có vòng bụng và vòng cổ lớn.

Theo ước tính, có 26% số người trưởng thành có nguy cơ cao bị hội chứng ngưng thở khi ngủ. Bình thường, đường hô hấp trên được nâng đỡ bởi các cấu trúc xương nhỏ và sụn bao quanh mũi và vùng hầu họng, giúp cho đường thở vẫn mở ra, không bị xẹp trong khi ngủ, không khí vẫn lưu thông từ mũi và miệng về trong phổi 1 cách dễ dàng. Tuy nhiên, đối với người bị hội chứng ngưng thở khi ngủ, những thành phần mô mềm như lưỡi và sụn của vùng hầu họng, bị tụt về trong đường thở kèm kích thước của đường hô hấp trên bị giảm do sự phì đại quá mức của mô mềm bao xung quanh đường hô hấp dẫn tới xẹp đường hô hấp trên một phần hoặc hoàn toàn gây tắc nghẽn lưu lượng khí kết hợp với giảm tín hiệu thần kinh tới các cơ hô hấp trong lúc ngủ và bởi vậy gây ra ngưng thở.

Hội chứng ngưng thở khi ngủ

Phân loại

Có hai loại: ngưng thở trung ương và ngưng thở tắc nghẽn.

Ngưng thở trung ương: khi các tín hiệu thần kinh từ trung ương không dẫn truyền tới các cơ hô hấp, kết quả là không có gắng sức cử động của các cơ hô hấp và không có lưu lượng khí thảo luận tại phổi, mặc dù đường hô hấp vẫn mở ra đủ trong khi ngủ, không bị xẹp hay tắc nghẽn.

26% số người trưởng thành có nguy cơ cao bị hội chứng ngưng thở lúc ngủ

Ngưng thở tắc nghẽn: gặp trong phần to các trường hợp. Đây là hậu quả của lưu lượng không khí qua mũi và miệng đến phổi giảm hoặc mất do hẹp hoặc xẹp đường hô hấp trên.

Ngoài ra còn có kiểu ngưng thở lúc ngủ hỗn hợp.

Dấu hiệu của hội chứng

Ngáy và buồn ngủ về ban ngày là những than phiền thường gặp nhất của hội chứng ngưng thở lúc ngủ. Ngoài ra, những triệu chứng khác bao gồm: có mệt mỏi, thiếu tập trung vào ban ngày, đau thắt ngực về đêm và hay giật mình thức giấc về đêm kèm theo thở gấp, ngạt thở. Khám lâm sàng có thể phát hiện béo phì là dấu hiệu thường gặp nhất. Bên cạnh đó, tất cả bệnh nhân nên được khám tai mũi họng để phát hiện Xuất xứ của tắc nghẽn hô hấp trên: tắc nghẽn mũi, phì đại amidan, lưỡi và gà VA, vẹo vách ngăn, mà những tắc nghẽn này có thể điều chỉnh được bằng phẫu thuật.

Phần mô mềm: lưỡi và sụn bị tụt vào trong đường thở gây tắc nghẽn lưu lượng khí

Ngáy là âm thanh được tạo ra bởi sự rung động của mô mềm của đường hô hấp trên trong lúc ngủ. Ngáy thường diễn ra trong khi hít vào, nhưng cũng có thể diễn ra trong lúc thở ra. Thói quen ngủ ngáy là thường gặp, khoảng 44% tại nam và 28% ở nữ tại độ tuổi từ 30 - 60 trong dân số chung có ngủ ngáy.

Ngáy là dấu hiệu chỉ điểm của tình trạng nâng cao kháng lực của đường hô hấp trên. Nó có thể là 1 dấu hiệu của hội chứng ngưng thở lúc khi ngủ và có thể liên quan với tình trạng hẹp đường hô hấp trên, bao gồm: béo phì, sung huyết ở mũi, bất thường của sọ mặt, phì đại amidan và suy giáp.

Mặc dù ngáy và ngủ ngày nhiều là triệu chứng điển hình của hội chứng ngưng thở khi ngủ. Tuy nhiên, ngáy chưa đủ để chẩn đoán, phải kèm với ngưng thở, tiếng khịt mũi, thở gấp, nghẹt thở và kèm theo buồn ngủ nhiều về ban ngày như ngủ gật lúc lái xe, lúc xem ti vi, sách báo.

Hội chứng ngưng thở lúc ngủHội chứng ngưng thở lúc ngủ cũng làm tăng nguy cơ tim mạch lên gấp 3 lần

Đối tượng nào dễ bị hội chứng này?

Béo phì chính là yếu tố nguy cơ của hội chứng ngưng thở khi ngủ nhiều nhất.

Ngáy và buồn ngủ về ban ngày là những than phiền thường gặp nhất của hội chứng ngưng thở lúc ngủ

Những yếu tố nguy cơ tiềm ẩn bao gồm có:

- Di truyền.

- Hút thuốc lá: tăng 3 lần hội chứng ngưng thở lúc ngủ.

- Sung huyết mũi: tăng hai lần.

- Đái tháo đường đề kháng insulin tăng 3 lần.

- Các yếu tố khác: rượu, thuốc an thần, mãn kinh, nam giới tăng cao hơn nữ.

Ảnh hưởng của hội chứng đến sức khỏe

Ngưng thở lúc ngủ gây giảm oxy máu và nâng cao khí CO2 tại máu, tình trạng này sẽ hoạt hóa thần kinh giao cảm gây co mạch, tăng nhịp tim dẫn đến tăng huyết áp, suy tim sung huyết, loạn nhịp tim, bệnh tim thiếu máu cục bộ và bệnh lý mạch máu não.

Các nghiên cứu cho thấy ngoài những yếu tố nguy cơ tim mạch đã biết như: hút thuốc lá, đái tháo đường và rối loạn lipid máu thì hội chứng ngưng thở khi ngủ cũng làm nâng cao nguy cơ tim mạch lên gấp 3 lần.

Các nghiên cứu cũng chứng tỏ rằng nguy cơ tử vong, tăng huyết áp gia nâng cao lúc tổng số đợt ngưng thở lúc ngủ trong 1 giờ càng gia tăng. Có nghĩa là số lần ngưng thở lúc ngủ càng cao thì tỉ lệ bệnh tim mạch càng cao.

Chẩn đoán và điều trị

Khi bệnh nhân tới gặp bác sĩ than phiền vì triệu chứng ngủ ngáy và buồn ngủ vào ban ngày quá mức, bác sĩ khám lâm sàng phát hiện có các triệu chứng nghi ngờ như: béo phì hoặc khám tai mũi họng nghi ngờ bất thường về cấu trúc sọ mặt và mô mềm của đường hô hấp trên, bệnh nhân sẽ được chỉ định đo đa ký giấc ngủ. Đa ký giấc ngủ là phương pháp đo ít nhất 7 tín hiệu: điện não đồ, điện mắt, điện cơ, điện tâm đồ, lưu lượng khí ở mũi, cử động gắng sức hô hấp của các cơ ở thành ngực và bụng và độ bão hòa oxy. Do đó, bệnh nhân sẽ được gắn các điện cực theo dõi, đeo máy đo độ bão hòa oxy ở ngón tay, đeo dây đai tại ngực để theo dõi cử động hô hấp của ngực và bụng, đeo dây oxy tại mũi để đo lưu lương khí qua mũi. Phương pháp này sẽ thực hiện tại theo dõi giấc ngủ có camera quan sát, tín hiệu sẽ được truyền vào bộ phận theo dõi của kỹ thuật viên. Phòng theo dõi giấc ngủ có thiết kế đầy đủ tiện thể nghi giống như ở nhà để tạo cho bệnh nhân có một giấc ngủ tự nhiên như thường ngày.

Nếu bệnh nhân vừa có có triệu chứng ngủ ngáy và buồn ngủ ban ngày nhiều kèm trên đa ký giấc ngủ có ghi tiếp nhân có tổng số đợt ngưng thở to hơn 5 lần trong 1 giờ khi ngủ và mỗi đợt ngưng thở kéo dài ít nhất là 10 giây, bệnh nhân được chẩn đoán có hội chứng ngưng thở khi ngủ.

Tiêu chuẩn chẩn đoán độ nặng của hội chứng ngưng thở khi ngủ tùy thuộc vào tổng số đợt ngưng thở trong một giờ.

Mức độ nhẹ: 6 - 15 đợt/ 1 giờ.

Trung bình: 16 - 30 đợt/giờ.

Nặng: > 30 đợt/giờ.

Điều trị hội chứng ngưng thở khi ngủ tùy thuộc vào mức độ nhẹ, trung bình hay nặng.

Mức độ nhẹ: chính yếu đánh tráo lối sống: giảm cân, dùng gối tránh ngáy, ngủ tư thế nghiêng, tránh dùng rượu, thuốc lá, thuốc an thần. Hoặc sử dụng dụng cụ nâng hàm: một sử dụng cụ gắn ở miệng có tác dụng đưa hàm dưới ra trước, tăng khoảng trống của vùng hầu và vùng sau đáy lưỡi, giảm tính xẹp của vùng hầu.

Mức độ trung bình: một số bệnh nhân được điều trị theo phương pháp phẫu thuật tạo hình vòm miệng hầu lưỡi gà nếu như nguyên do gây hội chứng ngưng thở khi ngủ là do bất thường vào cấu trúc vùng tai mũi họng: khi đó bệnh nhân sẽ được cắt amidan, lưỡi gà và vòm khẩu cái sau.

Mức độ nặng: thở áp lực dương thường xuyên trong lúc ngủ với máy thở CPAP, gắn với mặt nạ mũi hoặc mặt nạ miệng, được chỉ định đối với các trường hợp hội chứng ngưng thở lúc ngủ mức độ trung bình và nặng. Máy thở CPAP có tác dụng:

Giúp mở và ngăn ngừa xẹp đường hô hấp trên.

Giảm buồn ngủ về ban ngày tại gần như toàn bộ bệnh nhân.

Cải thiện tăng huyết áp, tiểu đêm.

BS.CKII. HUỲNH TẤN VŨ

0 comments:

Post a Comment